Page 228 - Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Ứng dụng công nghệ mới trong công trình xanh - lần thứ 9 (ATiGB 2024)
P. 228
th
HỘI THẢO QUỐC TẾ ATiGB LẦN THỨ CHÍN - The 9 ATiGB 2024 219
Đối với môi trường NaOH 10% thì mẫu NC sau với khối lượng nhựa UPE là hàm lượng thích hợp để
thời gian ngâm 01 ngày bắt đầu có sự biến dạng về chế tạo vật liệu NC trên cơ sở nhựa UPE
màu sắc và hình dạng cụ thể màu trở nên đục, trương
nở mạnh thể hiện qua sự biến đổi hình dạng không giữ 4. KẾT LUẬN
nguyên như ban đầu. Đến ngày thứ 3 trở đi mẫu bắt Từ các kết quả khảo sát ở trên có thể rút ra các kết
đầu phân rã, mẫu biến dạng hoàn toàn. Điều này là do luận như sau:
cấu trúc nhựa UPE có chứa nhóm chức este nên đã
tương tác hoá học với phân tử NaOH tạo dẫn xuất phân - Mẫu vật liệu NC với sự có mặt của chất gia
cực mạnh của muối cacboxylatnatri. Theo thời gian thì cường n-SiO2 làm tăng độ bền chịu trong môi trường
quá trình phản ứng với NaOH đủ lớn dẫn đến cấu trúc nước, axit và muối NaCl.
của nhựa đạt đến độ phân cực đủ mạnh do vậy mà bắt - Hàm lượng n-SiO2 là 0,6% so với khối lượng
đầu xảy ra sự hoà tan phân huỷ nhựa vào trong dung nhựa UPE thì làm tăng khả năng bền chịu trong môi
dịch NaOH [4,7]. Hiện tượng như vậy là hiện tượng
phân huỷ bẻ gãy mạch phân tử nhựa dưới tác dụng của trường và cấu trúc của vật liệu NC chặt chẽ, ít lỗ rỗng
tác nhân hoá học. Như vậy có thể thấy rằng vật liệu NC xốp hơn so với hàm lượng bé hơn.
trên cơ sở nhựa UPE không bền trong môi trường - Mẫu vật liệu NC kém bền trong môi trường kiềm
kiềm. kể cả khi có mặt n-SiO 2.
3.2. Khảo sát ảnh hưởng hàm lượng n-SiO2 và đến
cấu trúc hình thái hình học của vật liệu NC LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kính hiển vi Nhóm tác giả chân thành cảm ơn sự tài trợ kinh
điện tử quét (SEM) khảo sát ảnh hưởng của hàm phí của Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng
lượng n-SiO2 đến hình thái cấu trúc bề mặt của vật để thực hiện nghiên cứu này thông qua Đề tài cấp cơ
liệu NC. Mẫu được đo tại bề mặt bẻ gãy khi đo độ sở mã số: T2024-02-14.
bền uốn. Kết quả thu được thể hiện trên Hình 4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. S. M. Thahab and A. Eman, “Preparation and Characterization
of Nano silica Prepared by Different Precipitation Methods”, in
Proc. Conference Materials Science, Vol. 978, No. 1, pp. 12-
31, 2020.
[2]. S. T. Peters, Handbook of Composites, Chapman & Hall
London, 1998.
[3]. A. Sikoraa, P. Łukowskia, K. Cendrowski, E. Horszczaruk, and
E. Mijowskab, “The effect of nanosilica on the mechanical
properties of polymercement composites (PCC)”, Procedia
Engineering, Vol. 108, pp. 139 - 145, 2015.
[4].A. A. Athawale and J.A. Pandit, Unsaturated Polyester Resins,
Elsevier, 2019.
[5]. M. S. Gullapalli and S. Wong, “Nanotechnology: A Guide to
Nano-Objects”, Chemical Engineering Progress, Vol. 107, No.
5, pp. 28-32, 2011.
Hình 4. Ảnh SEM của mẫu nhựa nền UPE trắng [6]. M. S. Gullapalli and S. Wong, “Ultrasonic dispersion of
nanostructured materials with probe sonication - practical
(a); Ảnh SEM của mẫu NC với lần lượt hàm lượng aspects of sample preparation”, Powder Technology, Vol. 318,
n-SiO2 lần lượt là: 0,2% (b); 0,4% (c); 0,6% (d) pp. 451-458, 2017.
Từ kết quả phân tích hình thái cấu trúc bằng hình [7]. T. M. Dat, B. Chuong, B. T. Phuc, D. V. Khai, and L. V. Khue,
ảnh SEM cho thấy Hình 4(a) mẫu không có n-SiO2 “Research on manufacturing polymer composite materials
based on unsaturated polyester resins and nanosilica A200.
cấu trúc có lỗ rỗng xốp khá lớn, trong khi các mẫu Part I. Structure and properties of polymeric composite
NC với sự phân tán của n-SiO2 lần lượt với hàm materials on substrates of unsaturated polyester resins and
lượng tăng dần từ 0,2% đến 0,6% cho cấu trúc bền A200 nanosilica in the absence of binding agents”, Journal of
mặt có độ rỗng xốp giảm dần, bề mặt hình thái của Chemistry, Vol. 49, No. 6, pp. 756-760, 2011.
mẫu có độ nhẵn tăng dần. Đối với mẫu tương ứng [8]. T. Hao et al., “Emerging applications of silica nanoparticles as
hàm lượng n-SiO2 là 0,6% (Hình 4 (d)) thì bề mặt khá multifunctional modifiers for high performance polyester
composites”, Nanomaterials (Basel), Vol. 11, No. 11, 2021.
phẳng nhẵn, lỗ rỗng xốp không đáng kể. Điều này có
thể giải thích là với sự phân tán của cấu trúc nano
trong nhựa nền đạt được mức độ phân tán tối ưu khi
hàm lượng thích hợp với hàm lượng nhựa do vậy
lượng chất phân tán đủ để lấp đầy chỗ trống trong cấu
trúc rỗng xốp của nhựa đóng rắn [1, 8]. Kết quả này
cũng cho thấy với hàm lượng của n-SiO2 là 0,6% so
ISBN: 978-604-80-9779-0